Grand Cru là gì và Grand Cru ở mỗi khu vực khác nhau thế nào?
Grand Cru thường được dịch là “great growth” hay những lứa nho cực tốt, tuy nhiên nghĩa hiểu rõ ràng hơn đó là “sản phẩm từ những khu vườn cực tốt”. “Cru” là động từ thì quá khứ của croître trong tiếng Pháp, là nuôi trồng. Tuy nhiên, nghĩa chính xác của từ này trong nền công nghiệp rượu vang Pháp lại có sự khác biệt theo vùng.
Vùng rượu vang Burgundy/Bourgogne (Côte d’Or)
Bourrgogne còn có tên gọi là Burgundy. Grand cru Burgundy là cấp độ vang Burgundy được nhắc tới nhiều nhất trên nhiều phương diện, dù nó chỉ đóng góp chưa đến 2% tổng sản lượng khu vực này.
Đây có lẽ là khu vực đầu tiên nhiều người nghĩ tới khi nghe tới khái niệm “grand cru”, và có thể cũng là bảng phân hạng dễ hiểu nhất, cho dù có những chuyên gia đã dành cả đời để tìm hiểu cặn kẽ những khía cạnh của nó. Ngày nay, tất cả vườn nho khu vực Bourgogne (Burgundy) đều thuộc một bảng phân hạng chạy từ cấp cao nhất grand cru cho tới premier cru, rượu cấp làng xã và cấp độ Bourgogne chung chung.
Chính xác là có 31 vườn nho grand cru, với 33 nhãn tên grand cru (với Corton tính là một bao trùm cả Corton, Corton-Charlemagne và Charlemagne, ngoài ra Grand Cru Chablis được tính riêng). Những vườn nho này rơi vào khoảng từ 0.84ha (La Romanée – một vườn nho sở hữu riêng của Domaine du Comte Liger-Belair và cũng là nhãn appellation (phân cấp hạng) với diện tích nhỏ nhất thế giới) cho tới Corton là 97.5ha. Phần lớn các vườn nho nằm trong khoảng 5 tới 17ha, tuy nhiên diện tích không hẳn là chính xác để quyết định chất lượng của những vườn nho này.
Không giống như Chablis, mỗi vườn nho grand cru đều là một nhãn appellation riêng. Bởi thế, tên của vườn nho thường là yếu tố nhìn thấy rõ nhất trên nhãn trong khi đó chi tiết vườn nho này thuộc làng nào lại không được đề rõ, điều này có thể sẽ gây khó hiểu với phần lớn chúng ta.
Nguồn gốc của bảng xếp hạng Bourgogne có từ thời các nhà sư dòng tu Xito, được tách từ dòng thánh Bê-nê-đích năm 1098 để theo một cuộc sống thành tu, khổ hạnh hơn, tập trung vào canh tác thủ công hơn là việc sở hữu tài sản. Khi mà dòng tu Bê-nê-đích phát triển những vườn nho trong hàng thế kỉ, họ tập trung hơn vào quyền sở hữu chiếm dụng những vườn nho này, những thầy tu Xito đã có công xác định được những vườn nho cho chất lượng rượu vang cao nhất.
Năm 1855, cùng năm với bảng phân hạng nổi tiếng hơn từ vùng Bordeaux, giáo sư Jules Lavalle đã hoàn thành bản đồ địa lý khu vực Côte d’Or của Bourgogne, với chi tiết của tất cả các vườn nho từ Dijon tới Santenay. Dù thành quả này đã đặt nền móng nho hơn 400 appellation hình thành năm 1936, ông Lavelle lại phân những vườn nho Bourgogne này thành Tête de Cuvée (theo sau đó là Première, Deuxième and Troisième Cuvée). Bảng phân hạng Bordeaux năm 1855 cũng như công trình của ông Lavalle đều được nhìn nhận là phản ánh chính xác tình hình tại thời điểm đó, thế nhưng cả hai đều đã trở nên quá cố định
Thế nhưng, hệ thống phân hạng của Bourgogne phải tới 1936 mới được hoàn thiện. Từ những năm 1800 cho tới thời điểm đó, sự phân biệt rõ ràng giữa việc sản xuất nho và những nhà buôn rượu (négociants hay merchants). Vào thế kỉ 19, rượu vang vùng Bourgogne đã được phân định dựa trên giá trung bình của rượu vang tới từ những khu vực được phân ra một cách tương đối, lúc này rượu vang thường được bán bởi những nhà buôn và không có tên của nhà sản xuất riêng. Cuộc tranh luận giữa thương hiệu và thổ nhưỡng bắt đầu phát triển vào đầu thế kỉ 20; bảng phân hạng năm 1936 đã đánh dấu sự quan ngại ngày càng lớn của những nhà trồng nho lớn rằng sản phẩm của họ đã bị thui giảm chất lượng do sự pha trộn nho từ những nguồn khác.
Có tất cả 6 grand crus được sở hữu riêng, tuy nhiên với hệ quả từ cuộc kháng chiến Pháp và luật thừ kế từ thời Napoleon, nhiều thửa nho grand cru khác của Bourgogne đã bị phân ra cho nhiều chủ sở hữu, tận hơn 80 chủ sở hữu trong trường hợp của Clos de Vougeot. Ngày nay nhiều chủ sở hữu đã làm những hợp đồng quản lý, hoặc cho thuê cây nho của mình, với những domaine (nhà làm rượu) nổi tiếng ở Bourgogne, thế nhưng phần lớn grand cru của Bourgogne được sản xuất bởi nhiều hơn một nhà rượu. Ở Bourgogne cũng như nhiều nơi khác, không phải rượu vang grand cru nào cũng được tạo ra với chất lượng đều nhau, do sự khác nhau của cách làm rượu cũng như sự khác nhau của chất đất, khả năng thoát nước, độ phủ bóng râm, khả năng phát triển và chất lượng rượu trong một mảnh vườn nhỏ cỡ 8 ha cũng sẽ có sự chênh lệch rõ ràng.
Chablis
Khác với phần còn lại của Bourgogne, chỉ có một appellation cho Chablis Grand Cru và dòng chữ "Chablis Grand Cru" sẽ nổi trội trên nhãn chai, đi kèm với tên riêng của vườn nho. Tiêu chuẩn vùng (AOC) grand cru ở đây được thiết lập năm 1938 và cũng chỉ chiếm 2% tổng sản lượng vang của Chablis.
Cũng khác với những vùng khác được đề cập trong bài này, Chablis Grand Cru chỉ áp dụng cho những vườn cây Chardonnay nằm trên những sườn dốc hướng mặt phía Tây Nam, nhìn ra thị trấn Chablis với tổng diện tích 100ha. Có tổng cộng 7 vườn nho riêng thuộc Chablis Grand Cru, được gọi là những “climats”
Champagne
Không giống như những vườn nho của Côte d’Or (hay những điền trang rượu vang của Bordeaux), ở Champagne thì làng xã lại là tiêu chí để phân chia grand cru hay premier cru. Hệ thống này được biết tới với tên là Échelle des Crus (thang phân định của cru-lứa trồng) và được bắt đầu đề ra năm 1911 như một hệ thống cố định để phân giá thu mua nho từ người trồng của những nhà làm Champagne, đây cũng là giải pháp hòa hoãn tới từ sự bất bình của người trồng nho những năm trước đó. Điểm phân hạng những vườn nho ở Champagne, cũng giống như ở Bourgogne, có một lịch sử lâu dài và mang tính tôn giáo; theo ghi chép lại thì nhà sư dòng Bê-nê-đích là Dom Pérignon (1638-1715) đã có công xác định những vườn nho có chất lượng tốt hơn, cũng như việc pha trộn rượu vang (chưa phải vang sủi thời đó) để nâng cao chất lượng.
Những làng Grand cru là những làng được nhận 100% giá thỏa thuận tối đa cho vụ mùa nhất định, được định ra bởi một hội đồng những nhà sản xuất rượu và người trồng. Những làng Premier Cru được điểm 90 tới 99 nhận được phần trăm giá tương đương, trong khi đó những khu vực còn lại nhận 80 tới 89% giá đã được xác định.
Ban đầu có 12 làng nhận được danh hiệu Grand Cru, 5 làng khác sau đó được thêm vào năm 1985. Ngày nay, những vườn nho grand cru chỉ chiếm ít hơn 9% tổng diện tích trồng nho làm vang ở Champagne.
Bordeaux
Ở Bordeaux, thuật ngữ grand cru được áp dụng theo cách khác, dùng để chỉ một lâu đài (Château) hay một điền trang (estate) cụ thể, nơi sở hữu vườn nho mà có thể bao gồm một mảnh vườn tốt quanh khu nhà chính hoặc, thông thường hơn, rải rác trên một số khu vực.
Provence là vùng duy nhất khác của Pháp mà bảng phân hạng (bao gồm 14 cru classes) dựa trên những điền trang được sở hữu riêng.
Saint-Émilion: grand cru vs grand cru classé vs premier grand cru classé
Thuật ngữ "classé" cần được chú ý ở đây. Saint-Émilion Grand Cru chỉ là một nhãn appellation và có thể được hiểu như một phân hạng thứ 4 ở đây, không phải là hạng đầu. Theo nhiều khía cạnh, Saint-Émilion Grand Cru được hiểu khá gần với Bordeaux Supérieur hay là phân cấp superior của Ý.
Có hàng trăm chai rượu được để là Saint-Émilion Grand Cru. Không có tiểu vùng grand cru được phân ra ở đây; những chai rượu này đơn giản đi theo những quy định sản xuất khắt khe hơn (chủ yếu là sản lượng ít hơn và yêu cầu độ cồn cao hơn) cũng như phải thông qua thử nếm mỗi mùa thu hoạch để được đưa vào phân cấp này. Nhưng những chai rượu vang này (không phải classé) không được bào gồm trong bảng xếp hạng của vùng Saint-Émilion, được thiết lập năm 1955 và sửa đổi vào những năm 1996, 2006 và 2012.
Hiện giờ có tất cả 4 Premier Grands Crus Classés "A", 14 Premiers Grands Crus Classés "B", và 64 Grands Crus Classés. Bảng xếp hạng này sẽ được giữ không đổi cho tới 2022. Vào lần sửa đổi năm 2012, những điền trang được đánh điểm dựa trên việc đánh giá mẫu thử, danh tiếng trên thị trường, chất lượng của thổ nhưỡng và những cách thức sản xuất. Điểm chính xác theo từng hạng mục và số lượng lần thử cũng phụ thuộc việc những điển trang này muốn đăng kí để được phong hạng premier hay là grand cru classé.
Médoc, Graves and Sauternes
Những chai vang Médoc tốt nhất (kèm với Haut-Brion từ Graves) được sắp xếp năm 1855 thành 5 cấp độ thuộc "Les Grands Crus Classés". Theo như đó, 4 dòng rượu thuộc top đầu (bây giờ là 5 nhà tổng cộng) được để là Premiers Grands Crus.
Tuy nhiên từ “grand” thường được bỏ qua và mỗi nhà rượu thường được để danh xưng là First cho tới Fifth Growths (Premier tới Cinquième Crus) hoặc gọi chung là Cru Classés hay Classified Growths.
Cũng có nhiều lỗ hổng trong bảng xếp hạng này. Từ năm 1855 tới nay, nhiều Cru Classés đã mua và bán những mảnh vườn mà không bị thay đổi thứ hạng. Ngược lại, chúng ta có Château Gloria được tạo ra và phát triển từ năm 1942 tới nay dựa trên những mảnh vườn mua lại được từ hàng xóm của họ đều là Cru Classé nhưng bản thân lại không được xếp hạng. Thế nhưng, theo tiêu chuẩn quốc tế, nhà làm rượu này đã không còn là một tay mơ và có chất lượng đủ để cho vào xếp hạng theo đánh giá của nhiều chuyên gia.
Hãy liên hệ với WeWine để các Chuyên gia của chúng tôi có thể tư vấn các loại Grand Cru tốt nhất
Sommelier Lincoln-WeWine
Nguồn: Source: winesearcher.com
Rượu được đề xuất từ WeWine
Bài viết liên quan
-
Khám phá Champagne Egg Creation, tuyệt tác đắt giá kết hợp độc đáo giữa rượu vang thượng hạng và nghệ thuật hoàng gia.
-
Opus One - rượu vang quà tặng được giới sành vang trên toàn thế giới ưa chuộng bởi hương vị tinh tế và giá trị xuất sắc, khám phá ngay sức hút của thương hiệu đẳng cấp này.
-
Khám phá rượu vang Grand Cru Domaine Faiveley Musigny, biểu tượng của chất lượng tuyệt vời và di sản phong phú từ vùng Bourgogne nước Pháp.
-
Một chai Opus One niên vụ lâu năm có giá thành lên đến trăm triệu đồng với số lượng vô cùng khan hiếm. Vậy đâu là lý do khiến Opus One có giá trị cao trên thị trường rượu vang thế giới?
-
Nằm ở trung tâm vùng Valpolicella của Ý, Bertani là nhà máy rượu không chỉ đứng vững trước thử thách của thời gian, mà còn nâng nghệ thuật sản xuất vang lên một tầm cao mới.
-
Tọa lạc ngay tại trái tim của vùng Pauillac, ban đầu dưới trướng gia tộc Rothschild, sau đó tách ra hoạt động độc lập kể từ năm 1950, và gia nhập gia tộc Casteja vào năm 1970.
-
Chateau La Croix du Casse được ngài Philippe Casteja mua lại năm 2005, sát cánh cùng Domaine de l’Eglise, gia nhập hàng ngũ những lâu đài đại diện cho chất lượng vùng Pomerol.
-
Domaine Faiveley là đại gia diện tích đất Grand Cru và Premier Cru tại Burgundy và được Wine Spectator ưu ái nhận xét là một trong những nhà rượu nổi tiếng nhất Burgundy.
Copyright © 2020 by WeWine
Sản phẩm không dành cho người dưới 18 tuổi và phụ nữ đang mang thai | Sitemap